Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

ĐỌC DỊCH LÝ VÀ Y LÝ GIÚP BẠN

Góc triết học Phương Đông
             
Người xưa thường nhắc “ Bất học Dịch bất khả tri Y” có nghĩa là: không học về kinh dịch thì không hiểu về y lý. Kinh dịch không nói đến bệnh, không nói đến thuốc, không nói đến phủ tạng con người, giống như không có quan hệ gì với Y. Nhưng đó lại là câu trả lời cho người hỏi tại sao học thuốc phải biết về Kinh Dịch.
Căn nguyên vì quy luật hóa sinh trong trời đất đều lấy hai khí âm dương mà hóa sinh muôn vật, sự sống của con người là lấy hai khí âm dương mà nuôi sống mọi nơi và phủ tạng. Người ta là bẩm thụ khí âm dương của trời đất. Vì thế phát minh về sự huyền diệu của âm dương, động tĩnh trong trời đất không sách nào rõ ràng hơn bằng Kinh dịch.

Hải Thượng Lãn Ông, danh y nước ta thế kỉ XVIII đã nói “Hãy học Kinh Dịch rồi mới nói đến chuyện làm thuốc’’. Theo ông thì học Kinh Dịch, nghĩa là học về quái tượng, hào từ để nắm lấy quy luật mâu thuẫn mà lại thống nhất của âm dương, cái đầu mối tiêu hao hay phát triển của tạo hóa. Đồng thời hiểu rõ quy luật ngũ hành sinh khắc chế hóa để biết được hiện tượng Bĩ cực Thái lai.

Trời bao bọc lấy đất, dương bao bọc lấy âm, số dương nhiều số âm ít, cho nên nói “dương thường hữu dư âm thường bất túc”. Trong hàng trăm chứng bệnh của con người hầu hết là do chân âm kém, thủy không chế ước được hỏa rồi quân hỏa, tướng hỏa… bốc lên. Trong Dịch lý, quẻ Càn khi mới sinh là thực, khi bị tổn thương hào giữa trở thành quẻ Ly (hỏa) lại là hư tổn, từ đó hạn chế tình dục, giảm sự thất tình uất kết,  khiến cho thủy thăng hỏa giáng trở thành “thủy hỏa kí tế”, âm thì tin hoa, dương thì kín đáo. Hỏa được yên vị của nó thì mọi biểu hiện đều tốt đẹp. Qua đó ta thấy lý luận Kinh Dịch là nền tảng cấu tạo thành phương pháp luận của Đông Y trong đó có 5 mối quan hệ  sinh khắc đều không thể tách rời được.

Tôn Chân Nhân nói “Không biết Kinh Dịch thì không thể nói được là thầy thuốc giỏi”. Kinh Dịch luận về khí hóa, khí hóa đã tạo nên vũ trụ hữu hình. Khi tiến từ vô cực sang thái cực rồi lưỡng nghi… cho đến khi sự vật thành hình. Con người bẩm thụ được toàn khí cúa trời đất, tứ khí của ngũ hành. Con người là cái tâm của thiên địa. Tâm sinh ra thì ngôn ngữ được lập, lời nói được lập thì mới minh. Cho nên nói con người là vạn vật chi linh, con người cũng như vạn vật nói chung đều từ vũ trụ mà ra. Xuất phát từ lí thuyết “con người là một vũ trụ nhỏ” “thiên nhân hợp nhất”, các nhà Y học thời xưa đã cho rằng những định luật chi phối vũ trụ cũng đồng thời chi phối con người. Vì vậy triết lí về Dịch có mối quan hệ và ảnh hưởng rất sâu sắc, không thể tách rời tới phương pháp luận của nền Y học cổ truyền suốt mấy ngàn năm qua.

Dịch có thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái, trời trên đất dưới định rõ càn khôn. Cao, thấp đã bày ra thì quý, tiện đều có vị trí. Động, tĩnh có quy luật thì phân biệt rõ cương nhu. Nhiều chủng loại phát sinh thì sự lành dữ, tốt xấu cũng theo đó mà sinh.
Ở trời thành Tượng, ở đất thành Hình. càn khôn có vị trí thì sự biến dịch vận hành ở quãng giữa, cho nên trời đất sinh thành ra vật. Trời đất vận hành biến hóa, thánh nhân bắt chước noi theo. Trời buông ra hình tượng xuất hiện sự lành dữ, thánh nhân dựa theo hình tượng đó thông qua Hà Đồ, Lạc Thư rồi tìm hiểu ở vạn vật mà vạch ra bát quái. Bát quái để thông cái đức của thần minh, để thuận cái lẽ của tính mệnh. Bát quái vạch xong là đã có hình tượng ở trong đó, rồi lại gấp đôi lên các hào sinh ra ở trong đó, cương nhu cọ vào nhau, bát quái lay động vào nhau thì sự biến hóa đã có trong đó. Tất cả đều không ra ngoài sự biến dịch của thiên địa.
Người ta bẩm thụ tinh hoa của âm dương ngũ hành nên con người là loài linh nhất trong muôn vật, được khí âm dương của trời đất, hợp với sự hóa dục của càn khôn; tứ tưng ứng với trời, tứ khí ứng với đất. Sự mở đóng của trời đất là sự mở đóng của người ta, nước thủy triều lên xuống tức là mạch đập của người ta. Sao bắc thần của trời là gốc của mọi sự vận động, quả tim của con người là chủ của toàn thân. Xem đó thì biết khí của trời tức là linh khí của người, thể âm của đất tức là hình thể của con người. Triệu Khang Tiết nói “sự giao tiếp với nhau giữa trời với người là rất tinh diệu, thật là đáng sợ”. Thân thể người ta là một trời đất nhỏ, thật không có khoảng cách cho dù chỉ 1 ly. Vậy thì cái lý của trời đất là có đủ ở Dịch, thì cái lý của thân tâm người ta không đầy đủ ở Dịch hay sao?
Dịch của trời đất là Dịch ở người. Cho nên cần phải tìm ở trời trước rồi sau mới tìm ở người, ở trong trước rồi mới đến bên ngoài.

Quy luật biến dịch là vô cùng mà vạn vật sinh ở 1, 1 chia thành 2, 2 chia thành 4, 4 chia thành 8, 8 chia thành 16, từ 16 đến 32, 32 đến 64, cho đến 384 hào, 11520 biến động thì sự huyền diệu của giao cảm, cơ chế của sự hóa sinh và cái số của vạn vật đu từ đó mà ra. Nói rõ ra thì 1 gọi là  thái cực của Dịch. Thái cực vốn là vô cực. Tướng số chưa hiện hình thì đã có đủ cái lý rồi; Hư không mà hóa khí, từ khí để tạo nên hình đó là cái gốc ban đầu của một khí tiên thiên. Thầy thuốc mà biết rõ như thế thì biết sự sinh sinh hóa hóa là có nguồn gốc, mà tất cả ở thân thể chúng ta khi chưa có cơ sở ban đầu được xây dựng nên ở cha, mẹ để biết mà xem ngay vào hình tượng của sự bẩm thụ.

Nói 1 phân chia thành 2 là sinh lưỡng nghi, thái cực động mà sinh dương, tĩnh mà sinh âm, thiên sinh ở động, địa sinh ở tĩnh, dương là phối ngẫu với âm, âm là nền móng của dương. Lấy nguyên chất mà nói là trời đất, lấy công dụng mà nói càn khôn, lấy đạo lý mà nói là âm dương, một động, một tĩnh làm gốc rễ lẫn nhau chia ra âm, dương là thành 2 phía đối nhau thế là bắt đầu có tượng. Nhân hình để tụ khí, nhân khí để hóa thần, mà làm nên cái gốc ban đầu của thể tượng hậu thiên. Thầy thuốc mà biết điều đó, thì biết được âm dương khí huyết đều có chỗ chung mà làm nên.

Nói 2 chia thành 4 là lưỡng nghi sinh tứ tượng tức là bắt đầu động thì dương sinh, động đến cực độ thì âm sinh, bắt đầu tĩnh thì nhu sinh, tĩnh đến cực độ thì dương sinh. Thái, thiếu âm dương là tứ tượng của trời, thái thiếu cương nhu là tứ tượng của đất. Tai, mắt, miệng, mũi, để ứng với trời. Huyết, khí, xương, thịt để ứng với đất. Thầy thưc mà biết rõ lẽ: Trong dương có âm, trong âm có dương thì hiểu được những trường hợp giống như dương mà không phải dương, giống như âm mà không phải âm. Có thể từ đó mà biết được chân, giả, nghịch, thuận để xét ra chỗ ẩn, hiện đang làm rối loạn cơ thể.

Nói 4 phân thành 8 là tứ tượng sinh ra bát quái tức là: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Càn làm mạnh mẽ, Khôn là thuận theo, Chấn là động, Tốn là vào, Khảm là sa xuống, Ly là tốt đẹp, Cấn là dừng lại, Đoài là đẹp… Bát quái của Phục Hy chia ra thể tượng của âm dương. Bát quái của Văn Vương nói lên chỗ tinh vi của ngũ hành. Thầy thuốc mà biết rõ được điều đó, mới biết được trong âm dương lại có âm dương, trong cương nhu lại có cương nhu. Vậy thì cái thể đối đãi, cái lẽ tiêu tưởng, sự huyền diệu của giao cảm là rõ ràng đầy đủ, thì về tính, lý, thần, cơ, hình, tĩnh, bệnh trị của người ta có thể nhân đó mà biết được, điều chủ yếu là thông suốt được nhiều cánh biến hóa. Từ đó tứ tượng giao nhau thành 16 việc, bát quái lay động vào nhau mà thành 64 quái, chia ra nội ngoại quái để phối hợp với 6 hào, suy ở số 4 số 9 mà thành số hóa sinh. Nhân vật do đó mà đại thành, vạn tượng nhân đó mà đầy đủ. Khi nghiên cứu Kinh dich trước tiên hãy xem xét đồ tròn thì rõ được nghĩa ấy, đồ này tuy là hình tưng cho tất cả nhưng thiết thực nhất là ở một con người.

Cho nên nói đồ tiên thiên là vòng tròn ở giữa là tượng của trời, 64 quẻ sắp đặt ở ngoài , soi rõ cái lẽ biến hóa của âm dương. Thái cực vận động ở giữa, hình tượng tâm là chủ thể của toàn thân. Càn ở Nam, khôn ở Bắc là hình tượng ở trên, bụng ở dưới, ly ở Đông, khảm ở Tây là hình tượng tai mắt bên phải, bên trái. Từ quẻ phục đến quẻ đồng nhân là nội quái ở vùng quẻ chấn quẻ ly, 16 quẻ này là thiếu dương ở trong âm. Ở người ta là khoảng 2 x 8= 16 tuổi. từ quẻ Lâm đến quẻ càn, là nội quái ở vùng quẻ đoài, quẻ càn, 16 quẻ này là thái dương ở trong dương. Ở người ta là khoảng 4 x 8= 32 tuổi. Từ quẻ cấu đến quẻ sư là nội quái ở vùng quẻ tốn quẻ khảm. 16 quẻ này là thiếu âm ở trong dương ở người ta là khoảng 6 x 8= 48 tuổi. Từ quẻ độn đến quẻ khôn, là nội quái ở vùng quẻ cấn, quẻ khôn 16 quẻ này là thái âm ở trong âm, ở người ta là khoảng 8 x 8= 64 tuổi.
Dương sinh ở tý mà cực ở ngọ cho nên quẻ phục gọi là thiên căn (gốc) đến quẻ càn là 32 quẻ ứng với phần trước của 1 đối âm sinh ra ở ngọ mà cực ở tý, cho nên quẻ cấn gọi là “nguyệt quật” đến quẻ khôn là 32 quẻ để ứng với phần sau của cuộc đời. Phần trước của đời bắt đầu ở hào dương của quẻ phục, rồi lần lượt tăng thêm dần đến quẻ càn là dương thịnh cực độ, cũng giống như người ta từ thiếu niên đến tráng niên. Nữa đời phần sau bắt đầu ở một hào âm của quẻ cấu rồi lần lượt hao dần đến quẻ khôn là dương đến hết, cũng giống như người ta từ suy đến già.
Theo chiều dọc mà xét, thì tượng ở hào thứ nhất Càn hết ở ngọ. Khôn hết ở tí, đúng với thời lnh đông chí, hạ chí là đường chính giữa của trời đất mà phân chia ra bên tả bên hữu, bên tả chủ thăng, bên hữu chủ giáng. Thăng thì dương ở phía đông nam chủ về sự phát sinh của mùa xuân mùa hạ để ứng với sự lớn dần của người ta. Giáng thì âm ở phía tây bắc chủ sự thu liễm của mùa thu, mùa đông để ứng với sự tiêu mòn dần của người ta.
Theo chiều ngang mà xét thì tượng ở hào thứ 2, quẻ ly hết ở mão, quẻ khảm hết ở dậu, đúng tiết xuân phân, thu phân là phần nữa của âm mà chia ra trên dưới. Trên là dương, dưới là âm. Dương thì mặt trời mọc ở mão, để ứng với ban ngày trước, âm thì mặt trời lặn ở dậu để ứng với ban đêm ngủ. Ở đồ tròn này là đã đầy đủ cái lẽ vận khí, sự huyền diệu giữa người và trời đất.

Xét ở đồ vuông là hình tượng về đất, càn bắt đầu ở tây bắc, khôn tận cùng ở đông nam. Trời bất túc ở phía tây bắc, cho nên ở đồ tròn dương ở phía đông nam, đất không dày ở phía đông nam, cho nên vuông dương ở phía tây bắc. Đó là ý nghĩa vạch quẻ của Phục Hy. Còn về bát quái của Văn Vương thì vị trí có khác.
Phục Hy là theo hiện tượng tự nhiên, cho nên càn ở trên khôn ở dưới, ly bên tả khảm bên hữu. Văn Vương là theo số của Hà đồ cho nên hỏa ở nam, thủy ở bắc, mộc ở đông, kim ở tây. Liên hệ với mọi thứ trong người ta. Thì trời đất là hình thể, càn khôn là tính tình, âm dương là khí huyết, hai phía chung một gốc không tách rời nhau.  

Lấy hào, tượng mà xét thì dương của trời đất, lấy số 6 làm chừng mực, 2 lần của tam tài thành ra sáu hào. 6 hào dương, 6 hào âm thành 12 hào cho nên trời có 12 tháng, người có 12 tạng phủ. Trời có 12 cỗ nhật nguyệt hội, người có 12 kinh, trời có 12 thần, người có 12 khớp biết rõ lẽ đó là hình tượng vinh vệ được chu lưu kinh lạc biểu lý. Lấy tạng người mà nói thì từ hào sơ lục đến hào thượng lục (6 hào ở quẻ âm) âm là tạng: hào sơ lục chỗ của mệnh môn, hào lục nhị chỗ ở của tỳ, hào ngũ lục chỗ ở của tâm, hào thượng lục chỗ ở của phế. Từ hào sơ cửu đến hào thượng cửu (6 hào ở quẻ dương) là dương là phủ: hào sơ cửu ngang bàng quang, hào cửu nhị ngang đại trường, hào cửa tam ngang tiểu trường, hào cửu tứ ngang đởm, hào cửu ngũ ngang vị, hào thượng cửu ngang tam tiêu. Biết rõ điều đó thì âm dương của tạng phủ đã có hình tượng ở trong rồi.

Lấy hình thể mà xét thì Càn là đầu, dương cao ở trên. Khôn là bụng, âm rộng chứa vật ở dưới. Khảm là tai, dương thông ở bên trong, Ly là mắt dương sáng ra ở ngoài. Đoài là miệng mở ra ở trên, Tốn là đùi hai cái thọng xuống dưới, Cấn là tay dương ở phía trước, Chấn là chân dương động ở dưới. Trời bất túc ở tây bắc, cho nên tai mắt bên tả (trái) sáng hơn tai mắt bên hữu (phải) đất không đủ ở đông nam, cho nên tay chân bên hữu mạnh hơn bên tả. Thầy thuốc biết điều đó là hình tượng được thể lực của người ta.
Lấy sinh dục mà xét thì khí trời đất điều hòa vạn vật hóa thành, nam nữ kết tinh vạn vật hóa sinh. Trời cao đất thấp, Càn cha, Khôn mẹ, Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ, Chấn, Khảm. Cấn là 3 nam, Tốn, Ly, Đoài là 3 nữ. Muốn biết con mạnh yếu thì Càn mạnh ở đông nam, Khôn thuận ở Tây Bắc. Muốn sinh nhiều con cái thì bồi giữ quẻ Khảm quẻ Ly, mượn quẻ Đoài để thực hiện được nam.
Muốn biết cách gieo giống, thì theo khí mà đón thiên thời địa lợi. Đông chí bắt đầu thì dương cường, lúc âm thắng cần phải tránh. Thầy thuốc biết lẽ đó thì cái lẽ gieo cảm thụ thai đã có ở trong đó.

Lấy tinh thần mà xét thì số 1 thủy ở phương bắc là tinh của ta, cho nên nói thận tàng tinh, số 2 ở phương nam (hỏa) là thần của ta cho nên nói tâm tàng thần, số 3 mc ở phương đông là hồn của ta, cho nên nói can tàng hồn, số 4 kim ở phương tây là phách của ta, cho nên nói phế tàng phách, số 5 thổ ở giữa là ý của ta, cho nên nói tỳ tàng ý. Muốn biết âm dương của hồn phách, cần biết tinh thần có từng loại, mộc hỏa đồng khí cho nên thần, hồn tàng ở đông nam mà số 2 với số 8, số 3 với 7 đều là 10, kim thủy cùng nguồn cho nên tinh, phách tàng ở tây bắc , mà số 1 với số 9, 4 với 6 cũng là 10. Thổ nắm cả 4 khí cho nên chỉ riêng ý ở giữa thuộc số 5 thì hình tượng của ngũ hành tạng phủ đã có ở trong rồi.

Lấy động tĩnh mà xét thì dương chủ động, âm chủ tĩnh, thiên dương động, địa âm tĩnh, tĩnh là cơ sở của động, động là cơ năng của tĩnh. Nhu cương lay lắt nhau là động tĩnh của dịch, âm dương thăng giáng là động tĩnh của khí, hình khí tiêu tức (mòn dần nở ra) là xét kĩ ở âm dương. Động cực thì tĩnh mà để lại âm căn thì lấy dương mà thắng. Xét bệnh, chữa bệnh, xem mạch, dùng thuốc cần biết có tĩnh trong động, về thanh, về sắc, về khí, về vị cần biết trong nhu có cương. Biết được chỗ tinh vi của cương nhu động tĩnh thì sự huyền diệu trong ngành Y đã vận dụng được một nữa.

Lấy thăng giáng mà xét thì dương chủ thăng, âm chủ giáng, thăng là dương sinh, giáng là âm tử, cho nên mặt trời ở cung tí (nửa đêm) mới thăng lên, thăng thì hướng về sinh. Sau ngọ thì giáng, giáng thì hướng về tử, vạn vật đều là suy. Cơ chế của sự sống chết là thăng giáng mà thôi. Muốn biết chỗ cốt yếu của thăng giáng, trường hợp nên giáng mà không nên thăng thì đề phòng sự  lại tiến lên của quẻ bác, nên thăng không nên giáng thì bồi vào chỗ mới sinh của quẻ Phục. Sợ quẻ bác đến chỗ suy thì bắt đầu theo ở quẻ Quan. Muốn cho quẻ Phục cứ tiến lên dần, thì theo quẻ Lâm mà vận hành. Vì vậy muốn biết được lẽ tiêu trưởng thì tìm ở những chỗ đó mà biết.

Lấy thần với cơ mà xét thì cái tồn ở trong là thần, cái phát ra mà trúng là cơ, lặng lẽ không động là thần, cảm xúc mà không được là cơ. Biết lẽ đó thì thấu suốt từ đầu đến cuối thần là của ta. Biết làm phải biết tránh là cơ của ta. Thấy có thể được thì tiến, biết là không được thì thoái, đó là thần của ta. Nhanh chậm như tay người lái xe, nặng nhẹ như dao người nấu bếp đó là cơ của ta.
Thần cùng với cơ nương tựa lẫn nhau, cho nên thần có chỗ làm chủ, cơ có chỗ phán quyết (đoán), thần là chủ của cơ, cơ là kẻ sai khiến của thần. Thầy thuốc biết được thần, cơ mà vận dụng đó là thần của người thầy thuốc.

Lấy thu lại, dương ra mà xét: như lệnh đi rồi thì nấu nến, ngày qua thì đêm đến, vượng qua thì suy đến, chính đi thì tà đến. Cho nên khó, dễ tác động vào nhau, cương nhu chế nhau. Biết lẽ đó là cơ sở của già, thịnh là sự dẫn đến của suy, biết đến điều hòa giúp đỡ thì sự thành công có ở trong đó.
Lấy biến hóa mà xem xét thì vật sinh gọi là hóa, vật cực gọi là biến. Âm có thể biến thành dương, dương có thể biến thành âm chỉ là số 1 số 2 ấy, giao cảm sinh thành không đồng đều, vật đúng lúc thì hội lại sự biến hóa là do đó mà ra. Cho nên dương bắt đầu thì ôn, dương đến cực thì nhiệt, âm bắt đầu thì mát, âm đến cực thì hàn, ôn thì sinh vật, nhiệt thì trưởng vật, lương thì thu vật mà sự biến hóa rõ ra ở đó.

Lấy thường biến mà xem xét thường dịch, bất dịch là lẽ của thái cực, biến dịch thường dịch là cái động của tạo hóa.Thường là thể của dịch, biến là dụng của dịch. Cổ kim bất dịch là dụng của dịch tùy lúc mà biến dịch là dụng của dịch. Nhân tâm chưa động là thể của thường, vật dụng sinh ra là dụng của biến, do đó mà xét thì thuộc âm, thuộc dương là bẩm thụ như thường, khí lạnh khí nóng là biến sinh của bệnh. Vốn to, vốn nhỏ là thường của mạch.

Khi phù, khi trầm là biến của mạch, béo gầy không thay đổi là thường của thể mạo, thanh sắc thay đổi là biến của hình dung. Thường là dễ biết, biến là ứng sự khó biết. Cho nên lấy hàn chữa nhiệt là thường, lấy thuốc nhiệt chữa bệnh nhiệt là khó biết. Thông đi là hết đau cũng là thường, chữa mà không chữa là khó biết. Người xưa xem trên xét dưới, theo cái gần tìm cái xa là lẽ bình thường. Trau dồi đaọ đức, sửa sang nghề nghiệp, gặp việc vận dụng thích đáng là không biết. Biết cái lẽ thường biến thì thầy thuốc tránh được sự máy móc, mà nói được sự linh hoạt trong nghề Y.

Lấy sinh tử mà xét thì người ta bẩm thụ khí của trời đất để sinh, tụ thì sinh, tán thì tử. Cho nên khí làm ra vật là tụ mà có hình, vật làm ra khí là tán không có hình tượng. Đơn kinh viết: “Con người phần âm không hết thì không thành tiên, phần dương chưa hết thì không chết” cho nên cái ban đầu đến là thuộc ở dương, sinh thì phải sinh ở quẻ phục, dương sinh đến càn hết lại qui phục về âm. Thế thì chết phải chết ở khôn. Dương hết rồi qui về thổ: được dương thì sinh cho nên dương không có số 10, dương không chung kết được âm thì chết, cho nên âm không có sô 1, âm không có bắt đầu, vì thế chứng dương thì hay nói, chứng âm thì không nói, không nói thì chết hay nói thì sống. Hồn cường thì hay nói, phách cường thì hay ngủ, hay ngủ thì không tốt, hay nói thì dễ sống. Muốn cứu cho khỏi chết, cho hại đến cái sống, âm dương tụ tán là lẽ ấy, quẻ bác quẻ phục tiêu trưởng là cơ chế ấy, mà cái lẽ sinh tử đã có đầy đủ ở trong.

Lấy bệnh tật mà xét: thì quẻ Thái là trên dưới giao thông với nhau, quẻ Bĩ là càn khôn cách tuyệt nhau, quẻ Ký tế là tâm thận hài hòa, quẻ Vị tế là âm dương cách biệt. Quẻ đại quá, tiểu quá vào thị âm hàn cứ sâu dần ra thì thành hiện tượng có khối đầy cương. Quẻ Trung phu, quẻ Di ở giữa như là thổ, tạng không đủ mà di là hình cổ trướng. Quẻ Bác phục như chứng cách dương, thoát dương. Quẻ Quyết, quẻ Cấn như chững thoát âm, cách âm. Quẻ Quan là dương suy dn, quẻ Độn là nguyên nhân âm trưởng…

Lại như quẻ Ly làm quẻ Càn thì không đầu tức là tạng, nếu gặp quẻ Đoài là có liên quan đến phế, đến miệng. Giao với quẻ Khảm thì lợi hại lẫn nhau. Về phương đông thì đề phòng tai nạn thủy hỏa. Quẻ Khôn Càn tuy thích âm nóng mà thái quá. Cũng sợ khô ráo. Khảm là mẹ của mộc, Chấn Tốn thuận lợi với nhau, nếu gặp vị trí thổ thì khắc lại rất nguy. Kim thủy vốn là đồng khí, trái thường sinh ra táo thấp hại nhau, Khôn Cấn ở giữa, sự gặp khí mệnh ở phương đông. Nếu đến Càn Đoài thì vẫn như thường. Đó là lấy hiện tượng quẻ để đoán bệnh, lấy khảm ly mà phân thủy hỏa, tuy khảm vốn thuộc thủy mà có dương ở trong, ly vốn thuộc hỏa mà có âm ở trong, cho nên phương bắc là vùng thủy địa mà có khí nhất dương, phương nam là vùng hỏa địa mà có số 2 ở trong. Phương đông là dương mộc có số 8 ở trong, phương tây là âm mà có số 9 dương. Cái lẽ tiêu, trưởng, tử, sinh còn có nghịch thuận, chân giả sự biến hóa rất là phức tạp bệnh mỗi người một khác vì thế bệnh tật sinh ra không thể lấy số mà tính được.

 Muốn biết Y và Dịch, cho theo vào lẽ âm dương, muôn vàn thanh âm đều xuất xứ từ 1 đóng 1 mở, muôn vàn số đếm đều xuất xứ từ 1 số lẻ, 1 số chẵn. Muôn vàn quy luật đều xuất xứ từ 1 động 1 tĩnh, muôn vàn hiện tượng đều xuất xứ từ một vuông một tròn. Vuông tròn, động tĩnh, lẻ chẵn, mở đóng đều không ra ngoài số 1, số 2. Cho nên nói hình của trời đất giao nhau là càn với khôn. Càn khôn không có dục nên giao nhau lấy khảm và ly. Cái lẽ của Khảm Ly là âm với dương mà thôi nhưng hợp lại mà nói thì âm lấy dương làm chủ, mà quy luật của trời đất gọi là sinh, sinh là dương, là có (lẻ) là đơn (sắc đỏ). Dịch có vạn tượng 1 chữ bao trùm hết tất cả là chữ dương, sống chết là việc lớn, Một chữ quyết định cũng là chữ dương. Tuy nói dương là sánh với âm, mà càn dương là kiện vận. Âm là nền móng của dương mà khôn tĩnh thường yên. Sở dĩ khôn được yên đều nhờ càn dương làm nên. Quy luật của trời đất thì dương thường đầy, âm thường vơi để làm cái gốc sinh sinh của vạn vật. Khi dương thịnh thì biến, chết là vì chỗ ấy? Cho nên mặt trời đứng bóng thì xế, mặt trăng tròn thì khuyết, cũng giống như dương số 1, âm số 2, lại thấy âm nhiều hơn dương cho nên thọ hết tuổi thì ít, chết non thì nhiều.  Vì thế người xưa làm ra Dịch đến giữa khoảng tiêu và trưởng thì luôn luôn chú ý việc phù dương, ức âm đó không phải là ghét âm mà sợ bại hoại đến dương.

Toàn bộ Dịch, 1 chữ, 1 câu đều có ý nghĩa chỉ đạo cho Y học, 1 tượng 1 hào đều có bao hàm cái ý bảo vệ sự sống. Người xưa lập ra tượng để nói cho hết ý. Lập ra quẻ để nói cho hết thật giả, ngay gian. Vì thế Dịch tuy không nói đến Y mà bên trong có đầy đủ ý nghĩa của Y. Cho nên sự biến hóa trong trời đất, xen vào Dịch là có thể thấy tình trạng của con người. Xen vào tượng có thể nghiệm âm dương của bệnh có cách để xét phụ vào ở hình phải có cái phối ngẫu, phục ra ở sắc thì phải có cái để biện, cho nên thầy thuốc biết lẽ đó mà làm luận lí để xét là ứng nghiệm ngay. Lấy sự biến hóa của Dịch ứng hợp vào Y thì cái hình tượng đó đều là Y, đầy đủ hết cái lẽ của tạo hóa.

Lấy sự vận dụng của Y thay cho Dịch thì toàn thân đều là Dịch, sự yên nguy của con người có quan hệ mật thiết với Dịch, cho nên người xưa nói “Dịch có đủ trong Y, Y công dụng của Dịch”. Học Y mà không học Dịch thì sẽ nói: Y học không có khó gì, chỉ như thế mà thôi? Có ngờ đâu, gặp những chỗ mắt không thể thấy được, tai không thể nghe được thì làm sao tránh khỏi sự lúng túng vụng về.
Biết Dịch mà không biết Y thì sẽ nói: Dịch lý trừu tượng cao sâu khó mà vận dụng được trong Y học?. Vì thế có thể nói rằng Y cần phải có Dịch. Trong Y học, Dịch với Y không phải là hai. Trương Cảnh Nhạc nói : “Y với Dịch cùng một nguồn, cùng một sự biến hóa của âm dương, Y Dịch là thông suốt với nhau, nguyên lí chỉ là một chẵn một lẻ, làm Y mà không biết Dịch được sao”!
                                                  

              LY. NGÔ KIM BIÊN  (Sưu tầm và ghi chép)
              Hiệu đính transi



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét