Góc triết học Phương Đông
Người xưa thường nhắc “ Bất học Dịch bất khả tri Y” có
nghĩa là: không học về kinh dịch thì không hiểu về y lý. Kinh dịch không
nói đến bệnh, không nói đến thuốc, không nói đến phủ tạng con người, giống như
không có quan hệ gì với Y. Nhưng đó lại là câu trả lời cho người hỏi tại sao
học thuốc phải biết về Kinh Dịch.
Căn nguyên vì quy luật hóa sinh trong trời đất đều
lấy hai khí âm dương mà hóa
sinh muôn vật, sự sống của
con người là lấy hai khí âm dương mà nuôi sống mọi nơi và phủ tạng. Người ta là bẩm thụ khí âm dương của trời
đất. Vì thế phát minh về
sự huyền diệu của âm dương, động tĩnh trong trời đất không sách nào rõ
ràng hơn bằng Kinh dịch.
Hải Thượng Lãn Ông, danh y nước
ta thế kỉ XVIII đã nói “Hãy học Kinh Dịch rồi mới nói đến chuyện làm
thuốc’’. Theo ông thì học Kinh Dịch, nghĩa là học về quái tượng, hào từ để nắm lấy quy luật mâu thuẫn mà lại thống nhất của âm dương, cái đầu mối tiêu hao hay phát triển của tạo hóa.
Đồng thời hiểu rõ quy luật ngũ hành sinh khắc chế hóa để biết được hiện
tượng Bĩ cực Thái lai.
Trời bao bọc lấy đất, dương bao bọc lấy âm, số
dương nhiều số âm ít, cho nên nói “dương thường hữu dư âm thường bất túc”. Trong hàng trăm chứng bệnh của con
người hầu hết là do chân âm kém, thủy không chế ước được hỏa rồi quân hỏa,
tướng hỏa… bốc lên. Trong Dịch
lý, quẻ Càn khi mới sinh là thực, khi bị tổn thương hào giữa trở thành quẻ Ly (hỏa) lại là hư tổn, từ đó hạn chế tình
dục, giảm sự thất tình uất kết, khiến cho thủy thăng hỏa giáng trở thành “thủy
hỏa kí tế”, âm thì tin
hoa, dương thì kín đáo. Hỏa
được yên vị của nó thì mọi biểu hiện đều tốt đẹp. Qua đó ta thấy lý luận Kinh Dịch
là nền tảng cấu tạo thành phương pháp luận của Đông Y trong đó có 5 mối quan hệ sinh khắc đều không thể tách rời được.
Tôn Chân Nhân nói “Không biết Kinh Dịch thì không
thể nói được là thầy thuốc giỏi”. Kinh Dịch luận về khí hóa, khí hóa đã tạo nên
vũ trụ hữu hình. Khi tiến từ vô cực sang thái cực rồi lưỡng nghi… cho đến khi sự vật thành hình.
Con người bẩm thụ được toàn khí cúa
trời đất, tứ khí của ngũ hành. Con người là cái tâm của thiên địa. Tâm sinh ra thì ngôn ngữ được lập, lời nói được lập thì mới minh. Cho
nên nói con người là vạn vật chi
linh, con người cũng như vạn vật nói chung đều từ vũ trụ mà ra. Xuất phát từ lí thuyết “con người là một vũ
trụ nhỏ” “thiên nhân hợp nhất”, các nhà Y học thời xưa đã cho rằng những
định luật chi phối vũ trụ cũng đồng thời chi phối con người. Vì vậy triết lí về
Dịch có mối quan hệ và ảnh hưởng rất
sâu sắc, không thể tách rời tới phương pháp luận của nền Y học cổ truyền suốt mấy ngàn năm
qua.
Dịch có thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng
sinh ra bát quái, trời trên đất dưới định rõ càn khôn. Cao, thấp đã bày
ra thì quý, tiện đều có vị trí. Động, tĩnh có quy luật thì phân biệt rõ cương nhu. Nhiều chủng loại phát sinh thì
sự lành dữ, tốt xấu cũng theo đó mà sinh.
Ở trời thành Tượng, ở đất thành Hình. càn khôn có vị trí
thì sự biến dịch vận hành ở quãng giữa, cho nên trời đất sinh thành ra vật.
Trời đất vận hành biến hóa, thánh nhân bắt chước noi theo. Trời buông ra hình tượng xuất hiện sự lành dữ, thánh nhân dựa
theo hình tượng đó thông qua Hà Đồ, Lạc Thư rồi tìm hiểu ở vạn vật mà
vạch ra bát quái. Bát quái để thông cái đức của thần minh, để thuận cái lẽ của
tính mệnh. Bát quái vạch xong là đã có hình tượng ở trong đó, rồi lại gấp đôi lên các hào sinh ra ở trong đó, cương nhu
cọ vào nhau, bát quái lay động vào nhau thì sự biến hóa đã có trong đó. Tất cả đều
không ra ngoài sự biến dịch của thiên địa.
Người ta bẩm thụ tinh hoa của âm dương ngũ hành nên con người là loài linh
nhất trong muôn vật, được khí âm dương của trời đất, hợp với sự hóa dục
của càn khôn; tứ tượng ứng với trời, tứ khí ứng với đất. Sự mở
đóng của trời đất là sự mở đóng của người ta, nước thủy triều lên xuống tức là
mạch đập của người ta. Sao bắc thần của trời là gốc của mọi sự vận động, quả
tim của con người là chủ của toàn thân. Xem đó thì biết khí của trời tức
là linh khí của người, thể âm của
đất tức là hình thể của con người. Triệu Khang Tiết nói “sự giao tiếp với nhau giữa trời với người là rất
tinh diệu, thật là đáng sợ”. Thân thể người ta là một trời đất nhỏ, thật không
có khoảng cách cho dù chỉ 1
ly. Vậy thì cái lý của trời đất là có đủ ở Dịch,
thì cái lý của thân tâm người ta
không đầy đủ ở Dịch hay sao?
Dịch của trời đất là Dịch ở người. Cho nên cần phải tìm ở trời trước rồi sau mới tìm ở người, ở trong trước rồi mới đến bên ngoài.
Quy luật biến dịch là vô cùng mà vạn vật sinh ở 1,
1 chia thành 2, 2 chia thành 4, 4 chia thành 8, 8 chia thành 16, từ 16 đến 32,
32 đến 64, cho đến 384 hào, 11520 biến động thì sự huyền diệu của giao cảm, cơ chế của sự hóa sinh và cái số của vạn
vật đều từ đó mà ra. Nói rõ
ra thì 1 gọi là thái cực của Dịch. Thái
cực vốn là vô cực. Tướng số chưa hiện
hình thì đã có đủ cái lý rồi;
Hư không mà hóa khí, từ khí để tạo nên hình đó là cái gốc ban đầu của một khí
tiên thiên. Thầy thuốc mà biết rõ như thế thì biết sự sinh sinh hóa hóa là có nguồn gốc, mà tất cả ở
thân thể chúng ta khi chưa có cơ sở
ban đầu được xây dựng nên ở cha, mẹ để biết mà xem ngay vào hình tượng của sự bẩm thụ.
Nói 1 phân chia thành 2 là sinh lưỡng nghi, thái cực động mà sinh dương, tĩnh mà sinh
âm, thiên sinh ở động, địa sinh ở tĩnh, dương là phối ngẫu với âm, âm là nền
móng của dương. Lấy nguyên
chất mà nói là trời đất, lấy công dụng mà nói càn khôn, lấy đạo lý mà
nói là âm dương, một động, một tĩnh
làm gốc rễ lẫn nhau chia ra âm, dương là thành 2 phía đối nhau thế là
bắt đầu có tượng. Nhân hình để tụ khí, nhân khí để hóa thần, mà làm nên cái gốc
ban đầu của thể tượng hậu thiên. Thầy thuốc mà biết điều đó, thì biết được âm
dương khí huyết đều có chỗ chung mà làm nên.
Nói 2 chia thành 4 là lưỡng nghi sinh tứ tượng tức là bắt đầu động thì
dương sinh, động đến cực độ thì
âm sinh, bắt đầu tĩnh thì nhu sinh, tĩnh đến cực độ thì dương sinh. Thái, thiếu âm dương là tứ tượng của
trời, thái thiếu cương nhu là tứ tượng của đất. Tai, mắt, miệng, mũi, để ứng
với trời. Huyết, khí, xương, thịt để ứng với đất. Thầy thưốc mà biết rõ lẽ: Trong dương có âm, trong âm có dương thì
hiểu được những trường hợp giống như dương mà không phải dương, giống như âm mà không phải âm. Có thể từ đó
mà biết được chân, giả, nghịch, thuận để xét ra chỗ ẩn, hiện đang làm rối loạn cơ thể.
Nói 4 phân thành 8 là tứ tượng sinh ra bát quái tức là: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Càn làm
mạnh mẽ, Khôn là thuận theo, Chấn là động, Tốn là vào, Khảm là sa xuống, Ly là
tốt đẹp, Cấn là dừng lại, Đoài là đẹp… Bát quái của Phục Hy chia ra thể tượng của âm
dương. Bát quái của Văn Vương
nói lên chỗ tinh vi của ngũ hành. Thầy thuốc mà biết rõ được điều đó,
mới biết được trong âm dương lại có âm dương, trong cương nhu lại có cương nhu.
Vậy thì cái thể đối đãi, cái lẽ tiêu tưởng, sự huyền diệu của giao cảm là rõ ràng đầy đủ, thì về tính, lý,
thần, cơ, hình, tĩnh, bệnh
trị của người ta có thể nhân đó mà
biết được, điều chủ yếu là thông suốt được nhiều cánh biến hóa. Từ đó tứ tượng
giao nhau thành 16 việc, bát quái lay động vào nhau mà thành 64 quái, chia ra
nội ngoại quái để phối hợp với 6 hào, suy ở số 4 số 9 mà thành số hóa sinh.
Nhân vật do đó mà đại thành, vạn tượng nhân đó mà đầy đủ. Khi nghiên cứu Kinh
dich trước tiên hãy xem xét đồ tròn thì rõ được nghĩa ấy, đồ này tuy là
hình tượng cho tất cả nhưng thiết thực nhất là ở một con
người.
Cho nên nói đồ tiên thiên là vòng tròn ở
giữa là tượng của trời, 64 quẻ sắp
đặt ở ngoài , soi rõ cái lẽ biến hóa của âm dương. Thái cực vận động ở giữa, hình tượng tâm là chủ thể của toàn thân. Càn ở Nam, khôn ở Bắc là hình tượng ở trên, bụng ở dưới, ly ở Đông, khảm
ở Tây là hình tượng tai mắt
bên phải, bên trái. Từ quẻ phục đến quẻ đồng nhân là nội quái ở vùng quẻ chấn
quẻ ly, 16 quẻ này là thiếu dương ở trong âm. Ở người ta là khoảng 2 x 8= 16
tuổi. từ quẻ Lâm đến quẻ càn, là nội quái ở vùng quẻ đoài, quẻ càn, 16 quẻ này
là thái dương ở trong dương. Ở người ta là khoảng 4 x 8= 32 tuổi. Từ quẻ cấu
đến quẻ sư là nội quái ở vùng quẻ tốn quẻ khảm. 16 quẻ này là thiếu âm ở trong
dương ở người ta là khoảng 6 x 8= 48 tuổi. Từ quẻ độn đến quẻ khôn, là nội quái
ở vùng quẻ cấn, quẻ khôn 16 quẻ này là thái âm ở trong âm, ở người ta là khoảng
8 x 8= 64 tuổi.
Dương sinh ở tý mà cực ở ngọ cho nên quẻ phục gọi là thiên căn (gốc)
đến quẻ càn là 32 quẻ ứng với phần trước của 1 đối âm sinh ra ở ngọ mà cực ở tý, cho nên quẻ cấn gọi là
“nguyệt quật” đến quẻ khôn là 32 quẻ để ứng với phần sau của cuộc đời. Phần
trước của đời bắt đầu ở hào dương
của quẻ phục, rồi lần lượt tăng thêm dần đến quẻ càn là dương thịnh cực độ,
cũng giống như người ta từ thiếu niên đến tráng niên. Nữa đời phần sau bắt đầu
ở một hào âm của quẻ cấu rồi
lần lượt hao dần đến quẻ khôn là dương đến hết, cũng giống như người ta từ suy
đến già.
Theo chiều dọc mà xét, thì tượng ở hào thứ nhất Càn hết ở ngọ. Khôn hết ở tí,
đúng với thời lệnh đông chí,
hạ chí là đường chính giữa của trời đất mà phân chia ra bên tả bên hữu, bên tả
chủ thăng, bên hữu chủ giáng. Thăng thì dương ở phía đông nam chủ về sự phát sinh của mùa xuân mùa hạ để ứng với sự
lớn dần của người ta. Giáng thì âm ở phía tây bắc chủ sự thu liễm của
mùa thu, mùa đông để ứng với sự tiêu mòn dần của người ta.
Theo chiều ngang mà xét thì tượng ở hào thứ 2, quẻ ly hết ở mão, quẻ
khảm hết ở dậu, đúng tiết xuân phân, thu phân là phần nữa của âm mà chia ra
trên dưới. Trên là dương, dưới là
âm. Dương thì mặt trời mọc ở mão, để ứng với ban ngày trước, âm thì mặt trời lặn ở dậu để ứng với
ban đêm ngủ. Ở đồ tròn này là đã đầy đủ cái lẽ vận khí, sự huyền diệu giữa
người và trời đất.
Xét ở đồ vuông là hình tượng về đất, càn bắt đầu ở tây bắc, khôn tận cùng
ở đông nam. Trời bất túc ở phía tây bắc, cho nên ở đồ tròn
dương ở phía đông nam, đất không dày ở phía đông nam, cho nên vuông dương ở
phía tây bắc. Đó là ý nghĩa vạch quẻ của Phục Hy. Còn về bát quái của
Văn Vương thì vị trí có khác.
Phục Hy là theo hiện tượng ở tự nhiên, cho nên càn ở
trên khôn ở dưới, ly bên tả khảm bên hữu. Văn Vương là theo số của Hà đồ cho
nên hỏa ở nam, thủy ở bắc, mộc ở đông, kim ở tây. Liên hệ với mọi thứ trong
người ta. Thì trời đất là hình thể, càn khôn là tính tình, âm dương là khí huyết, hai phía chung một gốc
không tách rời nhau.
Lấy hào, tượng mà xét thì dương của
trời đất, lấy số 6 làm chừng mực, 2 lần của tam tài thành ra sáu hào. 6 hào
dương, 6 hào âm thành 12 hào cho nên trời có 12 tháng, người có 12 tạng phủ.
Trời có 12 cỗ nhật nguyệt hội, người có 12 kinh, trời có 12 thần, người có 12
khớp biết rõ lẽ đó là hình tượng
vinh vệ được chu lưu kinh lạc biểu lý. Lấy tạng người mà nói thì từ hào sơ lục đến hào thượng lục (6 hào ở quẻ âm) âm là
tạng: hào sơ lục chỗ của mệnh môn, hào lục nhị chỗ ở của tỳ, hào ngũ lục chỗ ở
của tâm, hào thượng lục chỗ ở của phế. Từ hào sơ cửu đến hào thượng cửu (6 hào
ở quẻ dương) là dương là phủ: hào sơ cửu ngang bàng quang, hào cửu nhị ngang
đại trường, hào cửa tam ngang tiểu trường, hào cửu tứ ngang đởm, hào cửu ngũ
ngang vị, hào thượng cửu ngang tam tiêu. Biết rõ điều đó thì âm dương của tạng phủ đã có hình tượng ở trong rồi.
Lấy hình thể mà xét thì Càn là đầu, dương cao ở
trên. Khôn là bụng, âm rộng chứa vật ở dưới. Khảm là tai, dương thông ở bên trong, Ly là mắt dương sáng ra ở ngoài. Đoài là miệng mở ra ở
trên, Tốn là đùi hai cái thọng xuống dưới, Cấn là tay dương ở phía trước, Chấn là chân dương động ở dưới. Trời bất túc ở tây bắc, cho
nên tai mắt bên tả
(trái) sáng hơn tai mắt bên hữu
(phải) đất không đủ ở đông nam, cho
nên tay chân bên hữu mạnh hơn bên tả. Thầy thuốc biết điều đó là hình tượng được thể lực của người ta.
Lấy sinh dục mà xét thì khí trời đất điều hòa vạn
vật hóa thành, nam nữ kết tinh vạn vật hóa sinh. Trời cao đất thấp, Càn cha, Khôn
mẹ, Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ, Chấn, Khảm. Cấn là 3 nam, Tốn, Ly, Đoài
là 3 nữ. Muốn biết con mạnh yếu thì Càn mạnh ở đông nam, Khôn thuận ở Tây Bắc.
Muốn sinh nhiều con cái thì bồi giữ quẻ Khảm quẻ Ly, mượn quẻ Đoài để thực hiện được nam.
Muốn biết cách gieo giống, thì theo khí mà đón
thiên thời địa lợi. Đông chí bắt đầu thì dương cường, lúc âm thắng cần phải tránh. Thầy thuốc biết lẽ đó thì cái lẽ gieo
cảm thụ thai đã có ở trong đó.
Lấy tinh thần mà xét thì số 1 thủy ở phương bắc là tinh của ta, cho nên nói thận
tàng tinh, số 2 ở phương nam
(hỏa) là thần của ta cho nên nói tâm tàng thần, số 3 mộc ở phương đông là hồn của ta, cho nên nói can tàng hồn, số 4 kim ở phương tây là phách của ta, cho nên nói phế tàng phách, số 5 thổ ở giữa là ý của
ta, cho nên nói tỳ tàng ý. Muốn biết âm dương của hồn phách, cần biết tinh thần có từng loại, mộc hỏa đồng khí cho
nên thần, hồn tàng ở đông nam
mà số 2 với số 8, số 3 với 7 đều là 10, kim thủy cùng nguồn cho nên tinh, phách
tàng ở tây bắc , mà số 1 với số 9, 4 với 6 cũng là 10. Thổ nắm cả 4 khí cho nên
chỉ riêng ý ở giữa thuộc số 5 thì hình tượng của ngũ hành tạng phủ đã có ở trong rồi.
Lấy động tĩnh mà xét thì dương chủ động, âm chủ tĩnh, thiên dương động, địa
âm tĩnh, tĩnh là cơ sở của động, động là cơ năng của tĩnh. Nhu cương lay lắt
nhau là động tĩnh của dịch, âm dương thăng giáng là động tĩnh của khí, hình
khí tiêu tức (mòn dần nở ra) là xét kĩ ở âm dương. Động cực thì tĩnh mà để lại âm căn thì lấy dương mà thắng. Xét bệnh, chữa bệnh, xem mạch, dùng thuốc cần biết có tĩnh trong động, về
thanh, về sắc, về khí, về vị cần biết trong nhu có cương. Biết được chỗ tinh vi
của cương nhu động tĩnh thì sự huyền diệu trong ngành Y đã vận dụng được
một nữa.
Lấy thăng giáng mà xét thì dương chủ thăng, âm chủ giáng, thăng là dương sinh,
giáng là âm tử, cho nên mặt trời ở cung tí (nửa đêm) mới thăng lên, thăng thì
hướng về sinh. Sau ngọ thì
giáng, giáng thì hướng về tử, vạn
vật đều là suy. Cơ chế của sự sống chết là thăng giáng mà thôi. Muốn biết chỗ
cốt yếu của thăng giáng, trường hợp nên giáng mà không nên thăng thì
đề phòng sự lại tiến lên của quẻ bác,
nên thăng không nên giáng thì bồi vào chỗ mới sinh của quẻ Phục. Sợ quẻ bác đến
chỗ suy thì bắt đầu theo ở quẻ Quan. Muốn cho quẻ Phục cứ tiến lên dần, thì
theo quẻ Lâm mà vận hành. Vì vậy muốn biết được lẽ tiêu trưởng thì tìm ở những chỗ đó mà biết.
Lấy thần với cơ mà xét thì cái tồn ở trong là thần, cái
phát ra mà trúng là cơ, lặng lẽ
không động là thần, cảm xúc mà không được là cơ. Biết lẽ đó thì thấu
suốt từ đầu đến cuối thần là của ta. Biết làm phải biết tránh là cơ của ta. Thấy có thể được thì
tiến, biết là không được thì thoái, đó là thần của ta. Nhanh chậm như tay người lái xe, nặng nhẹ như dao người
nấu bếp đó là cơ của ta.
Thần cùng với cơ nương tựa lẫn nhau, cho nên thần có chỗ làm chủ,
cơ có chỗ phán quyết (đoán), thần là chủ của cơ, cơ là kẻ sai khiến của thần.
Thầy thuốc biết được thần, cơ mà vận dụng đó là thần của người thầy thuốc.
Lấy thu lại, dương ra mà xét: như lệnh đi rồi thì nấu
nến, ngày qua thì đêm đến, vượng qua thì suy đến, chính đi thì tà đến. Cho nên
khó, dễ tác động vào nhau, cương nhu
chế nhau. Biết lẽ đó là cơ sở của già, thịnh là sự dẫn đến của suy, biết đến điều hòa giúp đỡ
thì sự thành công có ở trong đó.
Lấy biến hóa mà xem xét thì vật sinh gọi là hóa,
vật cực gọi là biến. Âm có thể biến thành dương, dương có thể biến thành âm chỉ là số 1 số 2
ấy, giao cảm sinh thành không đồng đều, vật đúng lúc thì hội lại sự biến
hóa là do đó mà ra. Cho nên dương
bắt đầu thì ôn, dương đến cực
thì nhiệt, âm bắt đầu thì mát, âm đến cực thì hàn, ôn thì sinh vật,
nhiệt thì trưởng vật, lương thì
thu vật mà sự biến hóa rõ ra ở đó.
Lấy thường biến mà xem xét thường dịch, bất dịch là lẽ của thái cực, biến dịch
thường dịch là cái động của tạo hóa.Thường là thể của dịch, biến là dụng của
dịch. Cổ kim bất dịch là dụng của dịch tùy lúc mà biến dịch là dụng của dịch.
Nhân tâm chưa động là thể của thường, vật dụng sinh ra là dụng của biến, do đó
mà xét thì thuộc âm, thuộc dương
là bẩm thụ như thường, khí lạnh khí nóng là biến sinh của bệnh. Vốn to, vốn nhỏ
là thường của mạch.
Khi phù, khi trầm là biến của mạch, béo gầy không
thay đổi là thường của thể
mạo, thanh sắc thay đổi là biến của hình dung. Thường là dễ biết, biến là ứng sự khó biết. Cho nên lấy hàn chữa nhiệt là
thường, lấy thuốc nhiệt chữa bệnh nhiệt là khó biết. Thông đi là hết đau cũng
là thường, chữa mà không chữa là khó
biết. Người xưa xem trên xét dưới, theo cái gần tìm cái xa là lẽ bình thường. Trau dồi đaọ đức, sửa sang nghề
nghiệp, gặp việc vận dụng thích đáng là không biết. Biết cái lẽ thường biến thì
thầy thuốc tránh được sự máy móc, mà nói được sự linh hoạt trong nghề Y.
Lấy sinh tử mà xét thì người ta bẩm thụ khí của trời đất để sinh, tụ thì
sinh, tán thì tử. Cho nên khí làm ra vật là tụ mà có hình, vật làm ra khí là
tán không có hình tượng. Đơn kinh
viết: “Con người phần âm
không hết thì không thành tiên, phần dương chưa hết thì không chết” cho nên cái ban đầu đến là thuộc ở dương, sinh thì phải sinh ở quẻ
phục, dương sinh đến càn là hết lại qui phục về âm. Thế thì
chết phải chết ở khôn. Dương hết rồi
qui về thổ: được dương thì sinh cho nên dương không có số 10, dương không chung kết được âm thì chết, cho nên
âm không có sô 1, âm không có bắt đầu, vì thế chứng dương thì hay nói, chứng âm thì không nói,
không nói thì chết hay nói thì sống. Hồn cường thì hay nói, phách cường thì hay ngủ, hay ngủ thì không tốt, hay nói thì dễ sống. Muốn
cứu cho khỏi chết, cho hại đến cái sống, âm dương tụ tán là lẽ ấy, quẻ bác quẻ
phục tiêu trưởng là cơ chế ấy, mà
cái lẽ sinh tử đã có đầy đủ ở trong.
Lấy bệnh tật mà xét: thì quẻ Thái là trên dưới giao thông với nhau, quẻ Bĩ là càn khôn cách tuyệt nhau, quẻ Ký tế là
tâm thận hài hòa, quẻ Vị tế là âm dương
cách biệt. Quẻ đại quá, tiểu quá vào thị âm hàn cứ sâu dần ra thì thành
hiện tượng có khối đầy cương. Quẻ Trung phu, quẻ Di ở giữa như là thổ, tạng
không đủ mà di là hình cổ trướng.
Quẻ Bác phục như chứng cách dương, thoát dương. Quẻ Quyết, quẻ Cấn như chững thoát âm, cách âm. Quẻ Quan là dương suy dần, quẻ Độn là nguyên nhân âm trưởng…
Lại như quẻ Ly làm quẻ Càn thì không đầu tức là tạng, nếu
gặp quẻ Đoài là có liên quan đến phế, đến miệng. Giao với quẻ Khảm thì lợi hại
lẫn nhau. Về phương đông thì
đề phòng tai nạn thủy hỏa. Quẻ Khôn Càn tuy thích âm nóng mà thái quá. Cũng sợ
khô ráo. Khảm là mẹ của mộc, Chấn Tốn thuận lợi với nhau, nếu gặp vị trí thổ
thì khắc lại rất nguy. Kim thủy vốn là đồng khí, trái thường sinh ra táo thấp
hại nhau, Khôn Cấn ở giữa, sự gặp khí mệnh ở phương đông. Nếu đến Càn Đoài thì
vẫn như thường. Đó là lấy hiện tượng
quẻ để đoán bệnh, lấy khảm ly mà phân thủy hỏa, tuy khảm vốn thuộc thủy mà có
dương ở trong, ly vốn thuộc hỏa mà có âm ở trong, cho nên phương bắc là vùng
thủy địa mà có khí nhất dương, phương nam là vùng hỏa địa mà có số 2 ở trong.
Phương đông là dương mộc có số 8 ở trong, phương tây là âm mà có số 9 dương.
Cái lẽ tiêu, trưởng, tử, sinh còn có nghịch thuận, chân giả sự biến hóa
rất là phức tạp bệnh mỗi người một
khác vì thế bệnh tật sinh ra không thể lấy số mà tính được.
Muốn biết Y và Dịch, cho theo vào lẽ âm dương, muôn vàn thanh âm đều xuất xứ từ 1
đóng 1 mở, muôn vàn số đếm đều xuất xứ từ 1 số lẻ, 1 số chẵn. Muôn vàn quy luật đều xuất xứ từ 1 động 1 tĩnh, muôn vàn hiện
tượng đều xuất xứ từ một vuông một tròn. Vuông tròn, động tĩnh, lẻ chẵn,
mở đóng đều không ra ngoài số 1, số 2. Cho nên nói hình của trời đất giao nhau
là càn với khôn. Càn khôn không có dục nên giao nhau lấy khảm và ly. Cái lẽ của
Khảm Ly là âm với dương mà thôi
nhưng hợp lại mà nói thì âm lấy dương làm chủ, mà quy luật của trời đất gọi là sinh, sinh là dương, là có
(lẻ) là đơn (sắc đỏ). Dịch có vạn tượng 1 chữ bao trùm hết tất cả là chữ dương,
sống chết là việc lớn, Một
chữ quyết định cũng là chữ dương. Tuy nói dương là sánh với âm, mà càn dương là
kiện vận. Âm là nền móng của dương mà khôn tĩnh thường yên. Sở dĩ khôn được yên
đều nhờ càn dương làm nên. Quy luật của trời đất thì dương thường đầy, âm thường vơi để làm cái gốc sinh
sinh của vạn vật. Khi dương thịnh thì biến, chết là vì chỗ ấy? Cho nên
mặt trời đứng bóng thì xế, mặt trăng tròn thì khuyết, cũng giống như dương số 1, âm số 2, lại thấy âm nhiều
hơn dương cho nên thọ hết tuổi thì ít, chết non thì nhiều. Vì
thế người xưa làm ra Dịch đến giữa
khoảng tiêu và trưởng thì luôn luôn chú ý việc phù dương, ức âm đó không phải là ghét âm mà sợ nó
bại hoại đến dương.
Toàn bộ Dịch, 1 chữ, 1 câu đều có ý nghĩa chỉ đạo
cho Y học, 1 tượng 1 hào đều có bao hàm cái ý bảo vệ sự sống. Người xưa lập ra tượng để nói cho hết ý.
Lập ra quẻ để nói cho hết thật giả, ngay gian. Vì thế Dịch tuy không nói đến Y
mà bên trong có đầy đủ ý nghĩa của Y. Cho nên sự biến hóa trong trời đất, xen
vào Dịch là có thể thấy tình trạng của con người. Xen vào tượng có thể nghiệm âm dương của bệnh có cách để xét phụ vào ở
hình phải có cái phối ngẫu, phục ra ở sắc thì phải có cái để biện, cho
nên thầy thuốc biết lẽ đó mà làm luận lí để xét là ứng nghiệm ngay. Lấy sự biến hóa của Dịch ứng hợp vào Y thì
cái hình tượng đó đều là Y, có đầy đủ hết cái lẽ của tạo hóa.
Lấy sự vận dụng của Y thay cho Dịch thì toàn thân đều là Dịch, sự
yên nguy của con người có quan hệ
mật thiết với Dịch, cho nên
người xưa nói “Dịch có đủ trong Y, Y là công dụng của
Dịch”. Học Y mà không học Dịch thì sẽ nói: Y học không có khó gì, chỉ như thế mà thôi? Có ngờ đâu, gặp những chỗ mắt không thể thấy được, tai
không thể nghe được thì làm sao tránh khỏi sự lúng túng vụng về.
Biết Dịch mà không
biết Y thì sẽ nói: Dịch lý trừu tượng
cao sâu khó mà vận dụng được trong Y học?. Vì thế có thể nói rằng Y cần phải có Dịch. Trong Y học, Dịch với Y
không phải là hai. Trương Cảnh Nhạc
nói : “Y
với Dịch cùng một nguồn, cùng một sự biến hóa của âm dương, Y Dịch là thông
suốt với nhau, nguyên lí chỉ là một chẵn một lẻ, làm Y mà không biết Dịch được
sao”!
LY. NGÔ KIM BIÊN (Sưu tầm và ghi chép)
Hiệu đính transi